Giá trị siêu âm Doppler mạch máu trong bệnh lý tuyến giáp

Giá trị siêu âm Doppler mạch máu trong bệnh lý tuyến giáp
Siêu âm tuyến giáp hiện nay đã trở thành một kỹ thuật phổ biến và rất hữu ích trong việc đánh giá và quản lý các bệnh lý của tuyến giáp. Đây là một phương pháp không xâm nhập, giá thành rẻ, có thể thực hiện nhiều lần cho hiệu quả cao nhưng lại an toàn cho người bệnh. Việc chẩn đoán cần dựa vào lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó siêu âm tuyến giáp và các mạch máu nuôi dưỡng tuyến giáp có giá trị định hướng và theo dõi cho người bệnh.
Bệnh viện Đa khoa Hà đông có phòng khám Nội tiết hàng năm có 6000 lượt người bệnh khám các bệnh lý về tuyến giáp trong đó có 2000 người được chẩn đoán và khám định kỳ bệnh lý basedow. Theo dõi định kỳ những bệnh nhân này ngoài việc đánh giá về kết quả xét nghiệm máu thì thăm khám bằng siêu âm mang lại một giá trị rất lớn đặc biệt khi dùng siêu âm doppler mạch máu trong bệnh lý basedow.
Bệnh nhiễm độc giáp là một bệnh tự miễn đặc trưng bởi nhiễm độc giáp (thyrotoxicosis). Biểu hiện trên lâm sàng: Nhiễm độc giáp, bướu giáp to lan tỏa, lồi mắt và tổn thương ngoại vi.
Tiêu chuẩn chẩn đoán dựa vào xét nghiệm:
- FT4 tăng và TSH giảm, một số bệnh nhân ở giai đoạn sớm chỉ có FT3 tăng
- Nồng độ kháng thể TSH-RAb tăng
- Xạ hình tuyến giáp cho hình ảnh tuyến giáp tăng bắt giữ Iod phóng xạ hoặc Technitium
Và hình ảnh học siêu âm:
- Kĩ thuật siêu âm: Bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa có gối kê sau gáy để lộ cổ ngửa tối đa. Bác sỹ sử dụng đầu dò line tuyến tính tần số cao (7-15MHz) độ phân giải cao với mặt cắt ngang và dọc của tuyến giáp.
- Đặc điểm hình ảnh trên siêu âm:
- Nếu siêu âm 2D thấy hình ảnh tuyến giáp phì đại lan tỏa: tổng thể tích > 20gram, eo giáp dày > 5mm. Mật độ âm: có thể tăng âm hoặc giảm âm không đồng nhất.
- Nếu siêu âm Doppler màu hoặc Doppler năng lượng: có hình ảnh tăng sinh mạch lan tỏa, giàu tưới máu, kiểu tưới máu này cho thấy dòng chảy trong tuyến giáp giãn lớn cả thì tâm thu và tâm trương.
- Đặc biệt nếu sử dụng siêu âm Doppler xung phối hợp với siêu âm màu: sẽ đo được chính xác vận tốc dòng chảy của động mạch tuyến giáp dưới. Từ đó đánh giá đỉnh tâm thu động mạch giáp trạng dưới, vừa có giá trị chẩn đoán vừa có giá trị theo dõi điều trị. Bình thường vận tốc đỉnh tâm thu : 25 - 45cm/s. Có giá trị chẩn đoán khi trên 70cm/s và giá trị theo dõi sau điều trị duy trì dưới ngưỡng 60cm/s.
Siêu âm 2D
Doppler mầu
Doppler xung
Ca bệnh: Bệnh nhân Nguyễn Thị H., sinh năm 1969, mã số 037809 được chẩn đoán Basedow 3 năm, sau điều trị các triệu chứng lâm sàng đã ổn định, xét nghiệm máu các chỉ số dần trở về bình thường. Kết quả siêu âm Doppler xung động mạch giáp trạng dưới vận tốc đỉnh tâm thu trước điều trị 65 cm/s - sau điều trị giảm xuống còn 35 cm/s.
Kích thước tuyến giáp phì đại lan tỏa
Doppler xung đo vận tốc đỉnh tâm thu
Kết luận:
Basedow là bệnh nội tiết thường gặp, chẩn đoán cần dựa vào lâm sàng và cận lâm sàng, trong đó siêu âm tuyến giáp là một trong những kỹ thuật quan trọng nhằm giúp cho chẩn đoán và theo dõi điều trị.
Trước đây, các bác sỹ lâm sàng thường chỉ định siêu âm tuyến giáp bằng kỹ thuật siêu âm thường 2D, phương pháp này chỉ đánh giá được kích thước tuyến giáp và phát hiện các khối của tuyến giáp nhưng khó đánh giá bản chất.
- Đối với bệnh lý tuyến giáp lan tỏa, siêu âm Doppler giúp đánh giá mức độ tăng sinh mạch và mức độ tưới máu đến tuyến giáp (như tăng tưới máu trong bệnh lý basedow, viêm tuyến giáp, … và giảm tưới máu trong một số bệnh lý như suy tuyến giáp, teo tuyến giáp,…).
- Đối với bệnh lý khu trú (như các khối u, nhân tuyến giáp), siêu âm Doppler giúp đánh giá mức độ tăng tưới máu, tăng sinh mạch tới khối u, giúp phân độ TIRADS - là tiền đề để đánh giá mức độ nguy cơ của các khối u.
Vậy siêu âm Doppler tuyến giáp không chỉ đánh giá được kích thước tuyến giáp, kích thước các khối bất thường, phương pháp này còn mang lại những giá trị trong chẩn đoán mức độ bệnh, theo dõi tiến triển của bệnh và định hướng nguy cơ của các khối bất thường tại tuyến giáp.