Hội chứng ống tay – bệnh lý gây tê bì, giảm khả năng lao động
Hội chứng ống tay – bệnh lý gây tê bì, giảm khả năng lao động
Hội chứng ống cổ tay còn gọi là hội chứng đường hầm cổ tay hay hội chứng chèn ép thần kinh giữa. Là bệnh lí gây chèn ép thần kinh ngoại biên ở ống cổ tay gây cảm giác tê bì, đau, giảm khả năng lao động.
Ngày nay bệnh lý hội chứng ống cổ tay với số lượng người mắc ngày càng tăng lên do các nhu cầu về công việc liên quan nhiều tới sự tỉ mỉ và lặp đi lặp lại của cổ tay. Hoa Kỳ tỷ lệ hiện mắc hàng năm vào khoảng 1 - 5% dân số và có xu hướng tăng dần, từ 258/100.000 người trong những năm 1981 - 1985 tăng lên tới 424/100.000 người vào những năm 2000 – 2005. Phần lớn hội chứng ống cổ tay là nguyên phát hay còn gọi là hội chứng ống cổ tay vô căn.
Với sự phát triển của Y học cùng các kỹ thuật thăm dò cận lâm sàng hiện đại đã giúp cho các thầy thuốc tìm hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh, nguyên nhân gây bệnh cũng như đạt được những tiến bộ đáng kể trong chẩn đoán và điều trị hội chứng ống cổ tay. Chẩn đoán hội chứng ống cổ tay hiện nay vẫn chủ yếu dựa vào các triệu chứng lâm sàng và được xác định bằng phương pháp thăm dò điện sinh lý của dây thần kinh giữa.
Cơ chế bệnh sinh: Khi dây thần kinh bị chèn ép sẽ làm tăng áp lực trong dây thần kinh, sự tăng áp lực này sẽ dẫn tới:
+ Giảm tưới máu vi mạch trong dây thần kinh.
+ Hạn chế vận chuyển của sợ trục, giảm chức năng của dây thần kinh.
+ Phù nề trong tế bào thần kinh
Biểu hiện qua các giai đoạn:
• Giai đoạn 1: thiếu máu cục bộ tạm thời bao thần kinh ở vùng bị chèn ép gây đau và dị cảm từng đợt
• Giai đoạn 2: các dị cảm, châm trích ở bàn tay trở nên hằng định, thường xuyên hơn, tương ứng với sự rối loạn vi mạch máu ở bao ngoài và bên trong thần kinh kèm theo phù nề bên trong bó thần kinh. Điện cơ thường cho thấy bất thường dẫn truyền cảm giác.
• Giai đoạn 3: chức năng vận động và cảm giác bị tổn thương vĩnh viễn, xuất hiện teo cơ ở mô cái. Điện cơ cho thấy sự thoái hóa myelin và sợi trục thứ phát sau một thời gian dài phù nề bên trong thần kinh
Nguyên nhân thường gặp: 70% là không có nguyên nhân.
Còn lại là các nguyên nhân:
- Khối choán chỗ vùng ống cổ tay: hạch, máu tụ, u bao gân…
- Chấn thương
- Nhiễm khuẩn: lao hoặc nấm gây viêm bao gân gấp cổ tay
- Bệnh lý về khớp: VKDT làm thay đổi giải phẫu ống cổ tay
- Các bệnh nội tiết
- Nghề nghiệp
Lâm sàng:
- Đau kiểu bỏng buốt kèm tê bì và cảm giác như kiến bò ở mặt gan tay ngón 1, 2, 3 và nửa ngoài ngón 4.
- Cảm giác ở ô mô cái và ngón 5 vẫn còn.
- Các triệu chứng có thể nặng lên vào ban đêm.
- Các nghiệm pháp dương tính:Tinel (+), Phalen (+), Mac murthy Dukan (+)
- Sức cơ giảm hoặc teo cơ vùng ô mô cái, khô da ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa

Hình 1: Các nghiệm pháp thăm khám lâm sàng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán: Kỹ thuật Điện cơ là một phương pháp đánh giá chức năng dẫn truyền dây thần kinh về cảm giác và vận động vùng da và cơ mà nó chi phối. Người ta dùng dùng điện cường độ nhỏ kích thích và đo thời gian đáp ứng về cảm giác và vận động ở vùng thần kinh giữa chi phối.
Tiêu chuẩn chẩn đoán các bất thường về dẫn truyền cảm giác và vận động dây thần kinh giữa theo hội điện thần kinh cơ Hoa Kỳ:
+ Kéo dài thời gian tiềm cảm giác khi DSL > 3,2 ms
+ Kéo dài thời gian tiềm vận động khi DML > 4,2 ms
+ Chậm tốc độ dẫn truyền cảm giác khi SCV < 50 m/s
+ Tăng hiệu số tiềm cảm giác giữa trụ khi DSLd > 0,79
+ Tăng hiệu số tiềm vận động giữa – trụ khi DMLd >1,25
Phân độ: Theo AAEM 2011 và Steven’s phân mức độ nặng của Hội chứng ống cổ tay thành 3 nhóm:
+ Nhóm nhẹ : chỉ kéo dài thời gian tiềm cảm giác dây thần kinh giữa
+ Nhóm trung bình: kéo dài thời gian tiềm cảm giác và vận động
+ Nhóm nặng: không có đáp ứng cảm giác và/hoặc không có đáp ứng vận động.
Ca lâm sàng:
Bệnh nhân: Phạm Thị Kh
SN: 1963
Địa chỉ: Mỹ đức Hà Nội
Lí do vào viện: tê bì bàn ngón tay hai bên
Bệnh sử: Khoảng 1 năm trước khi vào viện bệnh nhân tê bì bàn tay hai bên nhiều nhất tại ngón 1,2 bàn tay phải. Triệu chứng tăng dần và khi thực hiện một số hành động như hái rau hoặc đi xe máy.
Khám thấy: Bàn tay phải: teo một phần cơ ô mô cái phải, sức cơ giảm.
Bàn tay trái: không thấy teo cơ, sức cơ bình thường.
Các nghiệm pháp: Dấu hiệu Tinel (+), dấu hiệu Phalen (+) , ấn cổ tay (+)
CLS: Điện cơ ghi nhận tổn thương dây thần kinh giữa.

Hình 2 : Kết quả điện cơ của người bện

Hình 3 : Ca phẫu thuật được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa Hà đông
Bệnh nhân đã được phẫu thuật tại khoa Chấn thương chỉnh hình do TSBS Nguyễn Trọng Nghĩa thực hiện, sau mổ được hướng dẫn đeo nẹp cố định và Vật lí trị liệu. Hiện tại người bệnh đã phục hồi tốt về cảm giác và vận đông, giảm tê bì bàn tay.
Hội chứng ống cổ tay có tỷ lệ mắc ngày càng tăng mà nguyên nhân từ bệnh nghề nghiệp chiếm một phần không nhỏ. Chính vì vậy nhu cầu chẩn đoán và điều trị cho người bệnh rất cần thiết.
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng và điện cơ, hiện tại khoa Thăm dò chức năng có máy NIHON KOHDEN Neuropack S3 hằng ngày vẫn thu dung bệnh nhân.
• Bệnh viện đa khoa Hà đông hiện này có thể thực hiện tốt việc chẩn đoán và điều trị hội chứng ống cổ tay.