Sinh hoạt khoa học tháng 8
Thứ Hai 10/08/2020 07:03:27
Với mục đích nâng cao kiến thức chuyên môn, nâng cao chất lượng phục vụ, hướng đến sự hài lòng của người bệnh, đồng thời lồng ghép nội dung phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thông qua sinh hoạt khoa học lần này nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19. Ngày 04/8/2020, Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức buổi “Sinh hoạt khoa học tháng 8”. Đến dự buổi sinh hoạt khoa học với sự có mặt của BSCKII.Đào Thiện Tiến - Giám đốc Bệnh viện; BSCKII.Lê Hoàng Tú – Phó Giám đốc Bệnh viện; PGS.Trần Thị Thanh Hóa - Hội nội tiết – Đái tháo đường Việt Nam; Ts.Bs.Nguyễn Quốc Thái – Viện Tim Mạch Quốc Gia, cùng toàn thể các lãnh đạo trưởng phó khoa, phòng và các bác sĩ, điều dưỡng trong Bệnh viện. Tại buổi sinh hoạt khoa học, các học viên được lắng nghe các kiến thức khác nhau với 5 chuyên đề: Cập nhật Kiểm soát nhiễm khuẩn, phòng ngừa lây nhiễm Covid-19 trong Bệnh viện do Ths.Nguyễn Xuân Thiêm Trưởng Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn trình bày; Tiếp cận bệnh nhân Đái tháo đường Type 2 theo quan điểm điều trị mới dưới sự chia sẻ của Ts.Bs.Nguyễn Quốc Thái – Viện Tim mạch Quốc Gia; Cập nhật hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Covid-19 của BSCKII.Trần Kim Anh – Trưởng Khoa Các bệnh nhiệt đới; Vai trò trung tâm của Thận trong vòng xoắn bệnh lý Tim – Thận ở bệnh nhân đái tháo đường với sự giảng dạy của PGS.Trần Thị Thanh Hóa – Hội Nội tiết – Đái tháo đường Việt Nam và cuối cùng là Ths.BSCKII.Nguyễn Thị Thùy Dương – Phó trưởng Khoa Nhi trình bày về: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh. Các chuyên đề thu hút sự quan tâm, lắng nghe và được đánh giá cao bởi các bác sĩ bệnh viện đa khoa Hà Đông, các chuyên đề đều rất ý nghĩa, mang tính ứng dụng cao trong lâm sàng, đồng thời qua buổi sinh hoạt khoa học lần này giúp cho nhân viên y tế có cái nhìn toàn diện lại cách phòng chống và điều trị dịch bệnh Covid-19 trong lúc dịch bệnh đang diễn biến phức tạp, từ đó học hỏi, nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh cho người dân.  Phát biểu kết thúc buổi sinh hoạt khoa học, BSCKII.Đào Thiện Tiến – Giám đốc bệnh viện đa khoa Hà Đông gửi lời cảm ơn tới các chuyên gia về những chia sẻ quý báu, đồng thời, hy vọng các bác sĩ tham gia buổi sinh hoạt khoa học sẽ áp dụng hiệu quả những kiến thức này vào thực tiễn, giúp nâng cao hiệu quả điều trị các bệnh nhân mắc các bệnh về tim, thận, đái tháo đường, luôn nâng cao tinh thần học hỏi chuyên môn đồng thời luôn tích cực, chủ động trong công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19. Một số hình ảnh tại buổi sinh hoạt khoa học tháng 8: BSCKII.Đào Thiện Tiến phát biểu tại buổi sinh hoạt khoa học PGS.Trần Thị Thanh Hóa - Hội nội tiết – Đái tháo đường Việt Nam trình bày về chuyên đề "Vai trò trung tâm của Thận trong vòng xoắn bệnh lý Tim – Thận ở bệnh nhân đái tháo đường" Ts.Bs.Nguyễn Quốc Thái – Viện Tim mạch Quốc Gia chia sẻ về "Tiếp cận bệnh nhân Đái tháo đường Type 2 theo quan điểm điều trị mới"

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 6 về chuyên môn: Răng Hàm Mặt và Y học cổ truyền
Thứ Ba 09/06/2020 06:15:20
Nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, áp dụng thực tiễn, cải tiến hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh hướng tới sự hài lòng người bệnh. Chiều ngày 02/06/2020 Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức sinh hoạt khoa học tháng 6 với 02 chuyên đề “Sử dụng hàm Facemask điều trị khớp cắn loại III”, Khoa Răng Hàm Mặt và chuyên đề “Hiệu quả và sự an toàn của các bài thuốc Y học cổ truyền trong điều trị rối loạn giấc ngủ ở phụ nữ mãn kinh”, Khoa Y học cổ truyền(YHCT). Buổi sinh hoạt khoa học có sự tham gia của Ban giám đốc bệnh viện và lãnh đạo khoa, phòng, bác sĩ, điều dưỡng trong bệnh viện. BSCKII.Lê Hoàng Tú – Phó Giám đốc bệnh viện phát biểu tại buổi sinh hoạt khoa học Phát biểu khai mạc buổi sinh hoạt khoa học, BSCKII.Lê Hoàng Tú, Phó Giám đốc Bệnh viện “nhấn mạnh vai trò của buổi sinh hoạt, tạo điều kiện trao đổi chuyên môn, từ đó áp dụng có hiệu quả trong điều trị lâm sàng, đồng thời yêu cầu các học viên phải luôn nâng cao tinh thần tự giác học hỏi, trau dồi kinh nghiệm để bổ sung kiến thức phục vụ tốt công tác khám chữa bệnh”. Mở đầu buổi sinh hoạt khoa học, Ths.Bs Lê Anh Tùng – Khoa Răng Hàm Mặt đã trình bày về “Sử dụng hàm Facemask điều trị khớp cắn loại III”. Nội dung báo cáo nhấn mạnh vai trò của hàm Facemask là một loại khí cụ chỉnh hình, sử dụng lực ngoài miệng tác động lên xương hàm trên có tác dụng: làm tách đường khớp để kích thích sự phát triển của xương hàm trên, di chuyển ra trước xương hàm trên và răng hàm trên, xoay xuống dưới và ra sau xương hàm dưới, ngả lưỡi răng cửa hàm dưới. Hàm Facemask có cấu tạo bao gồm ba phần: Mặt nạ ngoài mặt (mask): Làm chỗ tựa để kéo xương hàm trên ra trước; Máng đeo trong miệng: Liên kết thành một khối gắn với răng hàm trên để tăng neo chặn và nâng cao khớp cắn; Hệ thống chun truyền lực: Nối giữa mặt nạ ngoài mặt và máng trong miệng. Tiếp đến Ths.Bs Lê Anh Tùng chỉ ra các trường hợp sử dụng hàm Facemask điều trị khớp cắn loại III do kém phát triển xương hàm trên; Bệnh nhân trong độ tuổi đang tăng trưởng; Răng cửa hàm trên có trục bình thường hay ngả sau; Kích thước dọc phía trước trung bình hoặc ngắn. Cuối cùng Ths.Bs Lê Anh Tùng trích dẫn case lâm sàng cụ thể bệnh nhân sử dụng hàm Facemask điều trị khớp cắn loại III.   Ths.Bs.Lê Anh Tùng – Khoa Răng Hàm Mặt trình bày về chuyên đề “Sử dụng hàm Facemask điều trị khớp cắn loại III” Tiếp sau đó là chuyên đề “Hiệu quả và sự an toàn của các bài thuốc Y học cổ truyền trong điều trị rối loạn giấc ngủ ở phụ nữ mãn kinh” được chia sẻ bởi Bác sĩ nội trú Nguyễn Thị Hương Giang, Khoa Y học cổ truyền. Theo đó, Báo cáo viên chỉ ra tiêu chuẩn lâm sàng chẩn đoán Mãn kinh: Phụ nữ từ 40 tuổi trở lên đang hành kinh xuất hiện mất kinh tự nhiên liên tục trong 12 tháng. Đối vớiphụ nữ dưới 40 tuổi tắt kinh, cần làm thêm xét nghiệm để chẩn đoán: nồng độ FSH > 40 mIU/ml và/hoặc estradiol < 50pg/l. Hội chứng mãn kinh: phụ nữ mãn kinh có một trong số 11 triệu chứng theo thang điểm BLATT – KUPPERMAN: bốc hỏa, tâm tính bất thường, mất ngủ, dễ bị kích động, lo âu, chóng mặt, hồi hộp, tính tình yếu đuối, đau cơ xương khớp, cảm giác kiến bò ở da. Trong báo cáo Bác sĩ Nguyễn Thị Hương Giang có đưa ra định nghĩa về Mất ngủ là khó đi vào giấc ngủ, khó duy trì giấc ngủ hoặc thức dậy quá sớm và không quay trở lại được giấc ngủ hoặc ngủ dậy có cảm giác không ngon giấc. Mất ngủ trong YHCT gọi là chứng “thất miên”, “bất mị”, “bất đắc miên”, gồm các thể bệnh:Tâm tỳ lưỡng hư, Âm hư hỏa vượng, Tâm đởm khí hư, Can uất hóa hỏa, Đàm nhiệt nội nhiễu. Mãn kinh có bệnh danh “kinh tuyệt” trong YHCT, là biểu hiện của quá trình lão suy. Cơ chế bệnh sinh chính của thời kì mãn kinh là do thận tinh hư tổn, âm huyết hư dẫn tới một loạt các biến hóa bệnh lý đều ảnh hưởng tới giấc ngủ. Hai thể bệnh hay gặp là Tâm tỳ lưỡng hư và Âm hư hỏa vượng. Khi điều trị bệnh lý mất ngủ ở phụ nữ mãn kinh cần phải áp dụng pháp trị cả tiêu lẫn bản: lấy bổ huyết sinh tinh làm căn bản để điều trị rối loạn thời kì mãn kinh; đồng thời sử dụng các vị thuốc có tác dụng an thần để điều trị triệu chứng. Qua đó, Bác sĩ Nguyễn Thị Hương Giang đã đưa ra các bài thuốc trong YHCT để điều trị mất ngủ ở phụ nữ mãn kinh như: Thuốc sắc YHCT, Điện châm, Nhĩ châm, Cấy chỉ, Cứu, Xoa bóp bấm huyệt, Massage chân, Ngâm chân thảo dược,... Hiện nay các bác sĩ Khoa Y học cổ truyền đã và đang tiến hành nghiên cứu tác dụng của bài thuốc Hậu thiên lục vị phương điều trị mất ngủ ở phụ nữ mãn kinh trên 15 bệnh nhân có độ tuổi từ 40-65 có mất ngủ, điều trị liên tục trong vòng 30 ngày và cho kết quả bước đầu ghi nhận có đến 60% bệnh nhân mất ngủ có giấc ngủ khá hơn, 27% có chất lượng giấc ngủ tốt hơn sau điều trị. Sau đó, Bác sĩ Nguyễn Thị Hương Giang chỉ ra các ưu điểm của các phương pháp này giúp cải thiện triệu chứng mất ngủ đồng thời điều trị vào gốc bệnh, tác dụng an thần gây ngủ là tổng hòa của nhiều thành phần tác động lên giấc ngủ, tác dụng từ từ, ổn định, hạn chế được các tác dụng không mong muốn, tình trạng nhờn thuốc, quen thuốc. Bs nội trú Nguyễn Thị Hương Giang – Khoa Y học cổ truyền trình bày về chuyên đề “Hiệu quả và sự an toàn của các bài thuốc Y học cổ truyền trong điều trị rối loạn giấc ngủ ở phụ nữ mãn kinh” Kết thúc phần trình bày của 02 báo cáo viên, các chuyên đề đã nhận được sự quan tâm, đặt ra câu hỏi và thảo luận từ các bác sĩ, điều dưỡng... tham dự trong việc ứng dụng lâm sàng nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các chuyên khoa để đạt hiệu quả tối đa trong khám và điều trị bệnh. Buổi sinh học khoa học tháng 6 với các chuyên đề đều rất ý nghĩa, mang tính ứng dụng cao trong lâm sàng, đồng thời giúp các khoa phòng khác trong toàn bệnh viện cập nhật kiến thức chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, từ đó học hỏi, nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh hướng tới sự hài lòng người bệnh.    

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 11
Thứ Bảy 09/11/2019 15:58:08
Nhằm cập nhật, bổ sung thêm kiến thức chuyên môn cho đội ngũ Y Bác sĩ cũng như tạo điều kiện để cán bộ Y tế Bệnh viện trao đổi, thảo luận kiến thức chuyên ngành, Chiều ngày 05/11/2019 Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức sinh hoạt khoa học thường niên tháng 11 với 02 chuyên đề: Cập nhật chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori của Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu – khoa Nội tiêu hóa; Nghiên cứu biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật của Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh – Trưởng khoa Thăm dò chức năng. Tại buổi sinh hoạt, Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu – khoa Nội tiêu hóa trình bày về chuyên đề Cập nhật chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori(HP). Vi khuẩn HP dịch tễ: Là một trong những nhiễm trùng phổ biến ở người. Phần lớn nhiễm ở độ tuổi trước 10 tuổi, tỷ lệ nam và nữ như nhau. Nguồn bệnh duy nhất là người, vi khuẩn cư trú ở dạ dày, lây truyền qua đường phân - miệng hoặc miệng - miệng. Các phương pháp chẩn đoán nhiễm HP bao gồm: Thứ nhất là Các test xâm lấn như: Test Urease; Nuôi cấy vi khuẩn; Khuếch đại chuỗi polymerase (PCR); Chẩn đoán mô bệnh học. Thứ hai là các test không xâm lấn: Test thở; Test huyết thanh; Phát hiện kháng thể kháng Hp trong nước tiểu; Phát hiện Hp trong phân bằng PCR; Phát hiện kháng nguyên HpSA trong phân. Phần thứ ba là điều trị HP bao gồm: Chỉ định bắt buộc; Chỉ định có thể: Xuất huyết giảm tiểu cầu nguyên phát, thiếu máu thiếu sắt. Sau đó, Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu đưa ra các phác đồ điều trị như: Phác đồ 3 thuốc có clarithromycin; Phác đồ 4 thuốc có bismuth; Liệu pháp đồng thời; Phác đồ nối tiếp; Liệu pháp phối hợp; Phác đồ 3 thuốc có levofloxacin; Phác đồ nối tiếp có fluoroquinolone; Phác đồ kép liều cao với amoxicillin; Phác đồ 3 thuốc có Rifabutin (PPI, amoxicillin, rifabutin: PAR). Kháng kháng sinh của HP: Các đột biến điểm nằm trên chromosome; Hình thành biofilm; Lẩn tránh kháng sinh: Chuyển dạng hình cầu, chuyển vị trí cư trú. Cuối cùng Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu đưa ra các thách thức trong điều trị: Sự tuân thủ điều trị; Đề kháng kháng sinh của Hp; Nhiễm Hp gia đình; Một số yếu tố khác: Hút thuốc lá, đái tháo đường, sử dụng nhiều loại kháng sinh khác. Ths.Bs.Vũ Xuân Diệu – khoa Nội tiêu hóa trình bày về chuyên đề “Cập nhật chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori” Cũng tại buổi sinh hoạt khoa học các cán bộ Y tế đã được nghe Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh – Trưởng khoa Thăm dò chức năng trình bày, trao đổi về chuyên đề: Nghiên cứu biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật. Tiền sản giật: (Theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế 2015 và ACOG) chẩn đoán xác định: Huyết áp tâm thu (HATT) ≥ 140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương (HATTr) ≥ 90mmHg sảy ra sau tuần thai thứ 20 của thai phụ có huyết áp bình thường trước đó hoặc tăng huyết áp mạn tính trong suốt thời kỳ mang thai. Có protein niệu ≥ 0,3g/24 giờ. Cơ chế bệnh sinh: Trong suốt quá trình mang thai, tế bào thuộc lớp trong lá nuôi di chuyển đến động mạch xoắn tử cung, thay thế lớp tế bào nội mô mao mạch, phá hủy sự đàn hồi của lớp áo giữa, cơ trơn, mô thần kinh. Với mục tiêu nghiên cứu là: Đánh giá sự biến đổi chức năng  tâm trương ở người phụ nữ mang thai bình thường và tiền sản giật trong quá trình mang thai. Khảo sát các thông số về hình thái, chức năng và huyết động thất trái bằng siêu âm Doppler tim ở phụ nữ mang thai bình thường, tiền sản giật. Bằng các phương pháp nghiên cứu như: Đo chỉ số nhân trắc; Đo huyết áp; Thăm dò chức năng tâm trương thất trái. Đối tượng của nghiên cứu: Nhóm 1: 86 sản phụ tiền sản giật đang điều trị tại khoa A1 – Bệnh viện phụ sản Hà Nội. Nhóm 2: 104 sản phụ mang thai bình thường tại bệnh viện đa khoa Hà Đông. Qua nghiên cứu Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh đưa ra kết luận: Nhóm phụ nữ mang thai bình thường: Suy chức năng tâm trương thất trái chỉ xuất hiện kỳ 3 tháng cuối và không có trường hợp nào suy mức độ 3. Nhóm mang thai tiền sản giật: Suy chức năng tâm trương thất trái ở nhóm mang thai tiền sản giật (48,8%) cao hơn so với nhóm mang thai bình thường kỳ 3 tháng cuối (11,6%), với (p< 0,001); Suy chức năng tâm trương giai đoạn 1, 2 và 3 ở nhóm mang thai bị tiền sản giật (18,6%; 27,9% và 2,3%) cao hơn so với nhóm mang thai bình thường (8,7%; 2,9% và 0%), với (p < 0,001). Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh – Trưởng khoa Thăm dò chức năng trình bày về chuyên đề “Nghiên cứu biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật” Thông qua nghiên cứu Ts.Bs.Lê Hoàng Oanh đưa các khuyến nghị: Phụ nữ mang thai nếu bị tăng huyết áp hoặc được chẩn đoán xác định tiền sản giật thì cần được làm siêu âm Doppler tim nhằm phát hiện sớm các bất thường tim mạch để có thái độ xử trí. Cần có những nghiên cứu tiếp theo đối tượng người mang thai bị tiền sản giật về các bệnh lý tim mạch sau khi sinh cũng như nghiên cứu các ảnh hưởng trên thai nhi để có đánh giá toàn diện về bệnh lý. Trong buổi sinh hoạt khoa học, các báo cáo viên và các cán bộ Y tế đã tham gia thảo luận, trao đổi về nội dung liên quan đến chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori cũng như biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật. Buổi sinh hoạt khoa học nhằm giúp các cán bộ Y tế của Bệnh viện cập nhật các thông tin, đồng thời góp phần nâng cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ Y tế về chẩn đoán và điều trị Helicobacter Pylori cũng như biển đổi chức năng tâm trương trên phụ nữ có thai thường và thai phụ bị tiền sản giật. Từ đó, nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe người bệnh và cho nhân dân.

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 9 năm 2019
Thứ Ba 22/10/2019 00:00:00
Nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, áp dụng thực tiễn, cải tiến hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh hướng tới sự hài lòng người bệnh, Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức sinh hoạt khoa học tháng 9 với 2 chuyên đề: Chuyên đề “Kĩ thuật làm cầu tay AVF và một số yêu cầu đối với siêu âm Doppler mạch máu”, khoa Ngoại Chấn thương; và Chuyên đề : "Báo cáo tình hình mổ Phaco 06 tháng đầu năm 2019" của khoa Mắt. Phát biểu khai mạc buổi sinh hoạt khoa học, BSCKII. Trần Ngọc Cường, Phó Giám đốc Bệnh viện nhấn mạnh vai trò của buổi sinh hoạt, tạo điều kiện trao đổi chuyên môn, các kiến thức khoa học kĩ thuật mới, từ đó áp dụng có hiệu quả trong điều trị lâm sàng, phục vụ tốt hơn công tác khám chữa bệnh”.    BSCKII. Trần Ngọc Cường, Phó Giám đốc Bệnh viện phát biểu tại buổi sinh hoạt khoa học tháng 9 Mở đầu buổi sinh hoạt khoa học, ThS.BS Nguyễn Mạnh Trường, Khoa Ngoại chấn thương đã chia sẻ về chuyên đề “Kĩ thuật làm cầu tay (Avf) và một số yêu cầu đối với  siêu âm Doppler mạch máu”. Có 2 loại giải phẫu cầu tay là Giải phẫu cầu tay truyền thống và giải phẫu cầu tay loại chuyển vị. Thứ tự lựa chọn vị trí làm avf là ở bên tay không thuận. Sau đó có thể tiến hành lựa chọn: TM đầu – ĐM quay vị trí cổ tay, TM đầu – ĐM cánh tay ở khuỷu, TM nền – ĐM trụ đoạn cổ tay, TM nền – ĐM cánh tay đoạn khuỷu, TM cánh tay – ĐM cánh tay, TM đầu đoạn cẳng tay chuyển vị - ĐM cánh tay đoạn khuỷu. Bên cạnh đó, ThS.BS Nguyễn Mạnh Trường cũng đánh giá vai trò của Doppler mạch máu và sự trưởng thành của AVF. Toàn bộ các AVF mới được kiểm tra trong 4-6 tuần để kiểm tra các triệu chứng của trưởng thành. AVF trưởng thành nên tuân thủ luật số 6: Đường kính 6mm, sâu dưới da không quá 6mm, có tốc độ máu thấp nhất 600ml/phút, chiều dài đoạn hiệu dụng ít nhất 6cm. Đối với cầu nối không trưởng thành thường đánh giá sau phẫu thuật 6-8 tuần, các nguyên nhân thường gặp như: hẹp miệng nối, hoặc TM bản lề, TM dẫn lưu phụ, TM dẫn lưu hẹp tắc, huyết khối, mạch không giãn nở do vôi hóa xơ vữa. Ngoài ra, ThS.BS Nguyễn Mạnh Trường cũng trình bày một số vấn đề về can thiệp nong mạch, phình và giả phình, phình mạch avf, hẹp giãn phối hợp,… BSCKI. Nguyễn Thu Uyên, khoa Mắt đã hướng dẫn, chia sẻ chuyên đề “Báo cáo tình hình mổ Phaco 06 tháng đầu năm 2019”. Tiếp sau chuyên đề “Kĩ thuật làm cầu tay (Avf) và một số yêu cầu đối với  siêu âm Doppler mạch máu”, BSCKI. Nguyễn Thu Uyên, khoa Mắt đã hướng dẫn, chia sẻ chuyên đề “Báo cáo tình hình mổ Phaco 06 tháng đầu năm 2019”. Thể thủy tinh là một thấu kính hội tụ có 2 mặt lồi trong suốt, bao gồm 3 phần tử từ ngoài vào trong là bao, vỏ, nhân và được treo bởi 2 dây chằng Zinn. Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến đục thể thủy tinh: đục thể thủy tinh tuổi già, đục thể thủy tinh bệnh lý, do chấn thương. Các yếu tố nguy cơ gây đục thể thủy tinh gồm tiểu đường, hút thuốc, tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, chế độ ăn sử dụng vi chất, uống rượu, gen di truyền. Các triệu chứng lâm sàng cũng được BSCKI. Nguyễn Thu Uyên chỉ ra: về các triệu chứng cơ năng nhìn mờ, lóa, rối loạn màu sắc, song thị, cận thị giả; về các triệu chứng thực thể: tùy vào loại đục thể thủy tinh mà có các triệu chứng khác nhau. Về hình thái, đục thể thủy tinh tuổi già bao gồm đục nhân trung tâm TTT, đục vỏ TTT, đục dưới bao sau. Đối với bệnh này, điều trị nội khoa ít có giá trị, phẫu thuật có 3 loại phẫu thuật: phẫu thuật trong bao cổ điển, phẫu thuật ngoài bao, mổ phaco.  Nguyên lý: máy Phaco phát ra một sóng hình sin có tần số vào khoảng 40.000H. Sóng này được truyền đến bộ phận chuyển đổi nằm trong tay cầm của máy Phaco và được chuyển thành dao động theo chiều dọc của đầu type Phaco. Các bước phẫu thuật bao gồm: gây tê, tạo đường vào tiền phòng, bơm nhầy TP, xé bao trước hình tròn liên tục, bơm nước tách nhân, phaco nhân, rửa hút chất nhân, bơm nhầy đầy bao, bắn nhân vào trong bao, bơm phù mép mổ. Một số biến chứng trong và sau mổ Phaco cũng được đề cập tới. Phương pháp mổ Phaco có nhiều ưu điểm: thời gian phẫu thuật ngắn, không đau, không chảy máu, vết mổ nhỏ, không cần khâu, giảm tối đa tỷ lệ loạn thị sau mổ, thị lực phục hồi sau 24h và xuất viện sớm, an toàn, giảm thiểu các biến chứng sau mổ. Ngoài ra, BSCKI. Nguyễn Thu Uyên cũng đề cấp đến phương pháp chăm sóc sau mổ,thực trạng mổ Phaco tại bệnh viện đa khoa Hà Đông, đánh giá kết quả sau phẫu thuật, giải pháp tăng thu dung bệnh nhân. Buổi sinh hoạt khoa học nhận được nhiều ý kiến đóng góp, thắc mắc của các học viên.     Buổi sinh học khoa học tháng 9 với các chuyên đề đều rất ý nghĩa, mang tính ứng dụng cao trong lâm sàng, đồng thời giúp các khoa phòng khác trong toàn bệnh viện cập nhật kiến thức chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, từ đó học hỏi, nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh hướng tới sự hài lòng người bệnh.    

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 10 chuyên đề: Thoát vị đĩa đệm, Đái tháo đường tuýp 2, Điều trị từ trường và laser
Thứ Hai 07/10/2019 17:11:36
Nhằm nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tăng cường cập nhật kiến thức chuyên môn, tăng cơ hội học tập của các y, bác sĩ, nhân viên y tế chia sẻ kinh nghiệm với các bệnh viện khác, hướng tới môi trường làm việc khoa học, chất lượng, đồng thời nâng cao hiệu quả công việc, không ngừng đáp ứng sự hài lòng của người bệnh, bệnh viện đa khoa Hà Đông tiếp tục tổ chức các buổi sinh hoạt khoa học thường niên. Buổi sinh hoạt khoa học tháng 10 với 4 Chuyên đề: Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng chụp cổng hưởng từ 1.5 TESLA của BSCKI. Lê Huy Hiếu – Khoa chẩn đoán hình ảnh; Phối hợp thuốc viên hạ đường huyết với insulin - ThS.BS Hà Lương Yên – Khoa Nội tiết bệnh viện Bạch Mai. Đơn giản hóa phác đồ điều trị đái tháo đường tuýp 2 của BS.Lê Huy Hiếu – Khoa chẩn đoán hình ảnh; Ứng dụng điều trị từ trường và laser tại khoa phục hồi chức năng - bệnhviện đa khoa Hà Đông của BS.Hoàng Ngọc Minh – Khoa phục hồi chức năng. BSCKII.Lê Hoàng Tú - Phó Giám đốc bệnh viện phát biểu mở đầu buổi sinh hoạt khoa học Mở đầu buổi sinh hoạt, BSCKII.Lê Hoàng Tú - Phó Giám đốc bệnh viện phát biểu nhận định đề tài của buổi sinh hoạt lần này rất đa dạng, là bài giảng chuyên sâu, rất có ý nghĩa, các học viên phải luôn nâng cao tinh thần học hỏi, trao đổi cập nhật kiến thức để áp dụng tại khoa phòng nơi mình công tác. Đồng thời gửi lời cảm ơn và tiếp tục mong nhận được sự trợ giúp, hỗ trợ của của ThS.BS.Hà Lương Yên trong việc cập nhật kiến thức, tìm hiểu chuyên sâu về các vấn đề chuyên môn giúp cho lĩnh vực y tế nói chung và bệnh viện đa khoa Hà Đông nói riêng ngày càng phát triển. Gửi lời chúc sức khỏe tới các cán bộ, học viên và chúc buổi sinh hoạt diễn ra thành công tốt đẹp. Tại buổi sinh hoạt BSCKI.Lê Huy Hiếu – Khoa chẩn đoán hình ảnh, chia sẻ về chuyên đề: Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng chụp cổng hưởng từ 1.5 TESLA của Thoát vị đĩa đệm (TVĐĐ): là hậu quả của bệnh thoái hóa xương sụn cột sống (osteochondrosis). Bệnh có thể xảy ra ở cột sống cổ, lưng nhưng chủ yếu ở cột sống thắt lưng. Chụp cổng hưởng từ cột sống thắt lưng (CHT CSTL) là phương pháp lựa chọn tốt nhất hiện nay, cho phép chẩn đoán tình trạng thoát vị đĩa đệm và ống tủy, bao rễ thần kinh và là phương pháp chụp an toàn, không can thiệp, không dùng thuốc cản quang, đặc biệt là không gây nhiễm xạ cho cả bệnh nhân và thầy thuốc. Do vậy, Bác sĩ đưa ra một số lưu ý: Hình ảnh không phải là triệu chứng, không có mối tương quan giữa hình ảnh, thể tích thoát vị và loại thoát vị với tính chất lâm sàng, một thoát vị lớn có thể không có dấu hiệu lâm sàng. Thoái triển hoặc khỏi tự nhiên trong 50 đến 70% các trường hợp. Điều trị nội khoa khỏi về lâm sàng trong 90%. Điều trị bảo tồn càng thuận lợi khi mảnh thoát vị lớn, rời và tiếp giáp vùng khoang ngoài màng tủy. Bắt thuốc sau tiêm là dấu hiệu gợi phản ứng viêm và thường đáp ứng tốt với điều trị nội. Cải thiện các dấu hiệu lâm sàng trước các dấu hiệu chẩn đoán hình ảnh. BSCKI.Lê Huy Hiếu – Khoa chẩn đoán hình ảnh, chia sẻ về chuyên đề “Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng bằng chụp cổng hưởng từ 1.5 TESLA” Chuyên đề thứ 2 trong buổi sinh hoạt này là Phối hợp thuốc viên hạ đường huyết (ĐH) với insulin: Giải pháp lựa chọn tối ưu. Dưới sự chia sẽ của ThS.BS.Hà Lương Yên – Khoa Nội tiết bệnh viện Bạch Mai. Mục tiêu điều trị: Làm chậm tiến triển & giảm tử vong bằng cách ngăn ngừa biến chứng của đái tháo đường (ĐTĐ).Tiếp cận điều trị ĐTĐ típ 2 thay đổi theo thời gian, và hiện nay có nhiều loại thuốc viên hạ đường huyết. Qua những nghiên cứu về Đái tháo đường, Bác sĩ Hà Lương Yên đưa ra cách tiếp cận hiện tại trong điều trị ĐTĐ: Insulin là liệu pháp giúp giảm HbA1c nhiều nhất kết hợp với chế độ luyện tập, dinh dưỡng theo khuyến cáo. Qua đó, ThS.BS. Hà Lương Yên đưa ra kết luận: bệnh nhân ĐTĐ typ 2 ngày càng gia tăng, mục tiêu điều trị ĐTĐ typ2 là kiểm soát tốt ĐH và giảm biến chứng cấp tính và mạn tính. Bệnh nhân ĐTĐ thường kèm nguy cơ bệnh tim mạch và thận là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu và giảm chất lượng cuộc sống. Insulin là giải pháp cuối cùng khi không hoặc kém kiểm soát đường huyết (KSĐH) bằng các thuốc viên uống. ThS.BS.Hà Lương Yên – Khoa Nội tiết bệnh viện Bạch Mai chia sẻ chuyên đề “Phối hợp thuốc viên hạ ĐH với insulin: Giải pháp lựa chọn tối ưu” Để đơn giản hóa về cách điều trị trên các nghiên cứu chi tiết về bệnh ĐTĐ tuýp 2 thì BS.Đinh Văn Tuy – Trưởng khoa nội tiết bệnh viện đa khoa Hà Đông trình bày về chuyên đề: Đơn giản hóa phác đồ điều trị đái tháo đường tuýp 2. Đái tháo đường là đại dịch toàn cầu và thực hành lâm sàng cho thấy có sự trì trệ tích cực hóa điều trị, thời gian trung vị đến khi được can thiệp tích cực bằng cách thêm thuốc điều trị ĐTĐ đường uống hoặc insulin. Mục tiêu điều trị quan trọng cho tất cả bệnh nhân ĐTĐ là KSĐH sớm và duy trì ổn định, thuốc ức chế DPP-4 là lựa chọn phổ biến khi thêm vào điều trị ĐTĐ với nhiều ưu điểm: Được đề cập trong các hướng dẫn quốc tế và quen thuộc với các bác sĩ chăm sóc ban đầu. Qua nghiên cứu cho thấy gần 50% bệnh nhân  ĐTĐ týp 2 kèm suy thận dùng liều cao thuốc ức chế DPP-4 không được cấp phép: Linagliptin giúp đơn giản hóa phác đồ điều trị bệnh nhân ĐTĐ và bệnh nhân luôn được duy trì liều cho phép (Chỉ 1 liều duy nhất 5mg, 1 lần/ngày). Hiệu quả của Linagliptin được chứng minh trong đơn trị liệu hoặc đa trị liệu, thậm chí ở bệnh nhân có mức HbA1c cao. Linagliptin là thuốc ức chế DPP-4 duy nhất có bằng chứng chứng minh an toàn tim mạch và thận, bao gồm các bệnh nhân có nguy cơ cao của bệnh thận và bệnh tim mạch. Linagliptin cung cấp giải pháp đơn giản: 1 liều, 1 lần/ngày trên phổ rộng các bệnh nhân ĐTĐ týp 2. BSCKI.Đinh Văn Tuy – Trưởng khoa nội tiết bệnh viện Đa khoa Hà đông chia sẻ chuyên đề “Đơn giản hóa phác đồ điều trị đái tháo đường tuýp 2” Cuối cùng là chuyên đề Ứng dụng điều trị từ trường và laser tại khoa Phục hồi chức năng – Bệnh viện đa khoa Hà Đông do BS.Hoàng Ngọc Minh – Khoa phục hồi chức năng trình bày. Đề tài của BS.Hoàng Ngọc Minh cho chúng ta thấy bệnh cơ xương khớp mãn tính và những con số báo động: Thống kê tại Mỹ cho thấy, hơn 1/3 dân số mắc các bệnh về xương khớp, tại nước ta đã lên hơn 6 triệu người, chiếm 7% tổng dân số, dù chưa có thống kê đầy đủ nhưng với 30% người trên 35 tuổi, 60% người trên tuổi 65 và 85% người trên tuổi 80 bị thoái hóa khớp, bệnh này đang thách thức ở Việt Nam, chi phí cho thuốc trị liệu đau mạn tính hàng năm lên tới 100 tỷ USD. Thay vì dùng thuốc, ngày nay có thể giảm đau bằng từ trường cũng cho kết quả tương đương và ít tai biến hơn. Tiếp theo là BS. Hoàng Ngọc Minh chỉ ra kết quả nghiên cứu tại khoa phục hồi chức năng bệnh viện đa khoa Hà Đông: Đánh giá kết quả điều trị từ trường 3 nhóm sử dụng vật lý trị liệu. Phương pháp: đánh giá trên 15 bệnh nhân thoát vị đĩa đệm chia 3 nhóm. Thời gian: 01 tháng;  Đánh giá: thang điểm đau VAS và đánh giá cải thiện bằng lời nói. Qua đó đưa ra kết luận: Tác dụng giảm đau của trường điện từ xung mạnh đối với nhóm bệnh thoát vị đĩa đệm, và kết quả đang được nghiên cứu tại khoa. BS.Hoàng Ngọc Minh trình bày chuyên đề “Ứng dụng điều trị từ trường và laser tại khoa Phục hồi chức năng – Bệnh viện đa khoa Hà Đông” Kết thúc buổi sinh hoạt BS.Phạm Văn Tự - Phó phòng chỉ đạo tuyến cám ơn sự có mặt và chia sẻ những kinh nghiệm chuyên môn của 4 báo cáo viên, cũng qua buổi sinh hoạt này mong muốn các y bác sỹ trẻ cần phát huy hơn nữa về công tác chuyên môn, đồng thời không ngừng học hỏi và trao đổi kiến thức, kinh nghiệm để góp phần xây dựng bệnh viện ngày càng phát triển bền vững, uy tín, hướng tới làm hài lòng người bệnh.

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học “Cập nhật kiến thức chuyên ngành Dược”
Thứ Hai 23/09/2019 00:00:00
Chiều ngày 18/09/2019, tại hội trường Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức sinh hoạt khoa học tháng 9 chuyên ngành  Dược, nhằm trao đổi kiến thức, quy chế chuyên môn Dược, nâng cao khả năng chẩn đoán và điều trị. Buổi sinh hoạt diễn ra có sự góp mặt của BSCKII. Lê Hoàng Tú - Phó giám đốc BVĐK Hà Đông và TS.BS Nguyễn Quốc Thái – Viện Tim mạch Quốc Gia cùng các bác sĩ, điều dưỡng tại viện đa khoa Hà Đông. Hình ảnh BSCKII. Lê Hoàng Tú - Phó giám đốc phát biểu tại buổi sinh hoạt khoa học tháng 9 Buổi sinh hoạt khoa học diễn ra với 03 chuyên đề đến từ khoa Dược: Quy chế chuyên môn Dược: Thông tư 52/2017/TT-BYT do Ds Thái Bá Thuật - Khoa Dược - BVĐK Hà Đông chia sẻ: Với nội dung được nhắc đến đầu tiên chính là thông tư 52/2017/TT/BYT Quy định về đơn thuốc và việc kê đơn thuốc hóa dược, sinh phẩm trong điều trị ngoại trú; Nội dung tiếp theo được Ds Thuật chia sẻ là kê đơn thuốc gây nghiện và cách kê đơn thuốc trên phần mềm HIS, hướng dẫn cách chỉ định mua thuốc ngoài tại phòng khám và nội trú. Đây là phần chia sẻ vô cùng hữu ích giúp các bác sĩ tại viện có thể kê đơn thuốc cho bệnh nhân một cách thuận tiện và đúng nguyên tắc theo thông tư. Trong bài chia sẻ  TS.BS Nguyễn Quốc Thái - Viện Tim mạch Quốc Gia  về “Tối ưu hóa trong điều trị bệnh mạch vành” đã đề cập đến kiến thức mới về chẩn đoán và điều trị hội chứng mạch vành mãn tính. Cuối cùng là chuyên đề “Tối ưu hóa kháng sinh” do Ds Quách Thị Thu Hà chia sẻ về tình trạng kháng sinh là một vấn đề cấp thiết, gần 20 năm nay không có thêm loại kháng sinh mới nào được tìm ra, yêu cầu đặt ra là cần phải sử dụng kháng sinh hợp lý và tối ưu kháng sinh vốn có. Nâng cao hiệu quả của sử dụng kháng sinh đó là tối ưu hóa dựa vào đặc tính dược động học và dược lực học (PK/PD)  của thuốc. Với mục đích cuối cùng là giúp bác sỹ hiểu được bản chất PK/PD của các nhóm kháng sinh để lựa chọn chế độ liều tối ưu nhất có thể giúp giảm kháng thuốc, tặng hiệu quả điều trị”. Buổi sinh hoạt khoa học diễn ra sôi nổi với nhiều ý kiến trao đổi, chia sẻ của các học viên về ba chuyên đề trên. Hình ảnh học viên trao đổi về kiến thức mới trong điều trị bệnh mạch vành Kết thúc buổi sinh hoạt khoa học là những ý kiến chỉ của BSCKII. Lê Hoàng Tú – Phó giám đốc bệnh viện mong muốn bệnh viện cập nhập kiến thức mới trong chẩn đoán và điều trị đặc biệt là nâng cao trách nhiệm trong cung cấp, sử dụng thuốc của bác sỹ, dược sỹ đang  công tác tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông.

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 8 chuyên đề: Sản khoa, Nhi khoa và Đái tháo đường
Thứ Ba 06/08/2019 22:01:20
Chiều ngày 2/8/2019,  tại Hội trường trực tuyến Bệnh viện đa khoa Hà Đông đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học định kỳ theo tháng với 03 chuyên đề: Liệu pháp mới trong điều trị ĐTĐ type 2 Thấy gì từ các chứng cứ mới  - PGS.TS.BS Trần Thị Thanh Hóa Bệnh viện Nội tiết Trung Ươn;  Liệu pháp khí trong điều trị hen ở trẻ em -  ThS.BS Nguyễn Thiện Thuật  Khoa Nhi; Chửa vết mổ - Bác sĩ Nguyễn Thị Hiền – khoa Phụ Sản. Mở đầu buổi sinh hoạt, Bác sĩ Nguyễn Thị Hiền – khoa Phụ Sản chia sẻ chuyên đề “ Chửa vết mổ” : là một dạng chửa ngoài tử cung, do thai làm tổ trong sẹo cũ trên cơ tử cung ; Tần suất gặp : 1/2.500- 1/1.800 tổng số ca sinh và chiếm 1% số trường hợp có sẹo mổ cũ Tỉ lệ chửa vết mổ ngày càng tăng do tỉ lệ mổ lấy thai tăng, nếu không điều trị đúng, kịp thời gây hậu quả nguy hiểm. Bên cạnh đó bác sĩ Hiền cũng chỉ ra cơ chế bệnh sinh, yếu tố nguy cơ của bệnh, cách điều trị nội khoa và ngoại khoa. Đồng thời đưa ra cách phân biệt loại túi thai trong tử cung đó là: Loại 1: túi thai phát triển hướng về phía buồng tử cung hay eo tử cung. Thai có thể phát triển đến đủ tháng bình thường hoặc rau bám thấp, rau cài răng lược; Loại 2: túi thai cắm sâu vào khe hở sẹo mổ cũ. Nếu thai phát triển đến quý 2, quý 3 có nhiều nguy cơ nguy hiểm: vỡ tử cung, xuất huyết ồ ạt, rau cài răng lược phải cắt tử cung, tổn thương bàng quang, truyền máu, tử vong. Bác sĩ Nguyễn Thị Hiền – khoa Phụ Sản chia sẻ chuyên đề “ Chửa vết mổ”tại buổi sinh hoạt khoa học Do vậy bác sĩ Hiền đưa ra một số khuyến cáo: Có chỉ định phẫu thuật lấy thai chặt chẽ để giảm tỉ lệ phẫu thuật lấy thai. Với trường hợp có tiền sử mổ cũ: chậm kinh cần đến cơ sở y tế để phát hiện sớm chửa vết mổ và có biện pháp xử trí phù hợp. Trường hợp mổ đẻ/vết mổ cũ : tránh mổ quá sớm khi đoạn dưới tử cung chưa thành lập. Tại buổi sinh hoạt  ThS.BS Nguyễn Thiện Thuật  Khoa Nhi chia sẻ: Gánh nặng trong quản lý Hen trẻ em ; Ưu điểm của liệu pháp phun khí dung; Đồng thuận về liệu pháp phun khí dung trên các bệnh hô hấp ở trẻ em 2017-2018. ThS.BS Nguyễn Thiện Thuật khoa Nhi chia sẻ tại buổi sinh hoạt khoa học Hen là bệnh lý thường gặp ở trẻ em và là nguyên nhân nghỉ học, khám cấp cứu và nhập viện nhiều hơn bất kì bệnh mạn tính tuổi học đường nào khác. Cũng trong buổi sinh hoạt PGS.TS.BS Trần Thị Thanh Hóa Bệnh viện Nội tiết Trung Ương chia sẻ về Đái tháo đường là một bệnh lý có cơ chế bệnh sinh phức tạp: Hiện tại người ta đã phát hiện ra 8 cơ chế bệnh sinh của bệnh đái tháo đường. PGS.TS.BS Trần Thị Thanh Hóa Bệnh viện Nội tiết Trung Ương chia sẻ về Đái tháo đường tại buổi sinh hoạt khoa học Bệnh tiểu đường dẫn đến tử vong tim mạch thông qua cả hai con đường: xơ vữa động mạch (MACE) và suy tim. Cả hai đều có chung cơ chế bệnh sinh Như vậy, chiến lược điều trị giảm tử vong ở BN ĐTĐ hiện nay ngoài kiểm soát HbA1c còn phải quan tâm đến việc làm giảm các biến chứng về suy tim, suy thận và xơ vữa. Ngoài ra còn phải quan tâm đến việc làm giảm các biến chứng về suy tim, suy thận và xơ vữa. Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có nguy cơ gia tăng các biến cố xơ vữa động mạch như nhồi máu cơ tim, dẫn đến phân suất tống máu giảm (HFrEF) do tổn thương thành mạch. Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cũng có nguy cơ bị suy tim do tác dụng gây viêm mạch máu trực tiếp trên cơ tim không phụ thuộc vào xơ vữa động mạch. Sự xuất hiện sớm của suy tim như vậy có thể là suy tim với phân suất tống máu bảo tồn (HPpEF) tiến triển tới suy tim với phân suất tống máu giảm (HFrEF) Cơ chế sinh lý bệnh của suy tim trong đái tháo đường. Tăng đường huyết, kháng insulin và tăng insulin máu, những rối loạn sinh lý chính trong đái tháo đường, góp phần gây bệnh tim mạch xơ vữa (ASCVD), tăng huyết áp, và nhiều rối loạn chuyển hóa, chức năng và cấu trúc tế bào, cũng như kích hoạt renin-angiotensin hệ thống-clo? (RAAS). Các bệnh cơ tim khác nhau do các quá trình này có mặt lâm sàng như suy tim ở đái tháo đường. AGE chỉ ra sản phẩm cuối cùng glycation; và FFA, axit béo tự do Có thể thấy từ ĐTĐ, ( tăng đường huyết đề kháng Ín và chứng tăng Ins ) dẫn đến thiếu máu cơ tim cục bộ, bệnh cơ tim tăng HA, Bệnh cơ tim tiểu đường là 3 mấu chốt dẫn đến suy tim đó là: Thiếu máu cục bộ nguyên nhân chủ yếu từ Bệnh tim mạch xơ vữa ; Bênh cơ tim tăng HA chỉ yếu từ Tăng HA;  Bệnh cơ tim tiểu đường là  phức tạp nhất từ rất nhiều nguyên nhân: giảm Oxy hóa G; tăng acid béo và gốc tự do, khiếm khuyesntrao đôi Canxi, Stress oxy hóa, RL chức năng ti theerl phì đại cơ tim, xơ hóa… Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cũng có nguy cơ bị suy tim do tác dụng gây viêm mạch máu trực tiếp trên cơ tim, nó độc lập với xơ vữa động mạch. Điều này được gọi là bệnh cơ tim tiểu đường và có thể xảy ra sớm trong quá trình bệnh đái tháo đường típ 2, thường không gây ra thiếu máu cục bộ mạch vành Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có nguy cơ gia tăng các biến cố xơ vữa động mạch như nhồi máu cơ tim, dẫn đến phân suất tống máu giảm (HFrEF) do tổn thương thành mạch. Bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cũng có nguy cơ bị suy tim do tác dụng gây viêm mạch máu trực tiếp trên cơ tim không phụ thuộc vào xơ vữa động mạch. Sự xuất hiện sớm của suy tim như vậy có thể là suy tim với phân suất tống máu bảo tồn (HPpEF) tiến triển tới suy tim với phân suất tống máu giảm (HFrEF) Trong vòng 20 năm qua, những nỗ lực đã làm giảm đáng kể các biến chứng mạch máu lớn như NMCT, đột quỵ, cắt cụt chi. Tuy nhiên tỉ lệ bệnh thận giai đoạn cuối hầu như không thay đổi, đòi hỏi cần phải có những liệu pháp điều trị mới để có thể làm giảm tiến triển bệnh thận ĐTĐ. Tuy nhiên sau 15 năm kể từ khi ra đời nghiên cứu Renaal và IDNT cho thấy hiệu quả của thuốc ARB có khả nwang làm chậm tiến triển bệnh thận ĐTĐ, đến nay chưa có thuốc mới . Kết thúc buổi sinh hoạt, BSCKII Lê Hoàng Tú - Phó Giám đốc bệnh viện cám ơn sự chia sẻ những kinh nghiệm chuyên môn của 3 báo cáo viên. Qua buổi sinh hoạt này mong muốn các y bác sỹ trẻ cần phát huy hơn nữa về chuyên môn. Góp phần xây dựng  bệnh viện ngày càng phát triển bền vững và uy tín.

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 7 năm 2019
Thứ Hai 08/07/2019 14:27:55
Nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, áp dụng thực tiễn, cải tiến hơn nữa chất lượng khám chữa bệnh hướng tới sự hài lòng người bệnh, Bệnh viện đa khoa Hà Đông tổ chức sinh hoạt khoa học tháng 7 với 3 chuyên đề: Chuyên đề “Ứng dụng màng Fibrin giàu tiểu cầu trong điều trị các bệnh lý răng miệng”, khoa Răng Hàm Mặt; “Nghiên cứu đặc điểm dịch khớp và kết quả của phương pháp tiêm nội khớp Corticosteroid” khoa Nội tổng hợp;  và Chuyên đề : "Kỹ thuật tạo đường vào mạch máu AVF" của khoa Ngoại Chấn thương. Phát biểu khai mạc buổi sinh hoạt khoa học, BSCKII. Trần Ngọc Cường, Phó Giám đốc Bệnh viện nhấn mạnh vai trò của buổi sinh hoạt, tạo điều kiện trao đổi chuyên môn, các kiến thức khoa học kĩ thuật mới, từ đó áp dụng có hiệu quả trong điều trị lâm sàng, phục vụ tốt hơn công tác khám chữa bệnh”. BSCKII. Trần Ngọc Cường, Phó Giám đốc Bệnh viện phát biểu tại buổi sinh hoạt khoa học tháng 7 BS nội trú Nguyễn Thu Hằng, Khoa Răng Hàm Mặt với chuyên đề “Ứng dụng màng Fibrin giàu tiểu cầu trong điều trị các bệnh lý răng miệng”. Mở đầu buổi sinh hoạt khoa học, BS nội trú Nguyễn Thu Hằng, Khoa Răng Hàm Mặt đã chia sẻ về chuyên đề “Ứng dụng màng Fibrin giàu tiểu cầu trong điều trị các bệnh lý răng miệng”. Mục đích tạo sự thoải mái cho bệnh nhân, nâng cao chất lượng điều trị. Đây là kĩ thuật đầu tiên được áp dụng và thử nghiệm, có thể sử dụng cả 2 dạng gel và dạng màng tủy mục đích điều trị. Phương pháp này có nhiều ưu điểm như: Quy trình thực hiện đơn giản, chi phí thấp, chỉ định điều trị rộng rãi, độ an toàn cao, hiệu quả, có thể sử dụng cho một số lĩnh vực khác như phẫu thuật tạo hình. Báo cáo viên đã chỉ ra các tiêu chuẩn của vật liệu ghép lý tưởng, định nghĩa và những nét chính về huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng, quy trình cải tiến tạo fibrin giàu tiểu cầu. Bên cạnh đó, BS Nguyễn Thu Hằng cũng chia sẻ về tính ứng dụng cao của phương pháp này trong điều trị tại khoa Răng Hàm Mặt, Bệnh viện đa khoa Hà Đông đối với tất cả bệnh lý răng hàm mặt như nang chân răng, viêm quanh răng có tiêu xương ổ răng, răng khôn mọc lệch gây biến chứng, cấy ghép implant nha khoa, viêm xương hàm. Việc ứng dụng phương pháp này thu được kết quả điều trị thành công trên 24 bệnh nhân (Từ tháng 2 năm 2018 đến tháng 12 năm 2018) với kết quả điều trị bước đầu ghi nhận: Các triệu chứng sưng đau sau phẫu thuật giảm, vùng phẫu thuật không chảy máu, không có hiện tượng nhiễm trùng vết mổ, 100% bệnh nhân cảm thấy hài lòng với chất lượng điều trị. Tiếp sau đó là chuyên đề Nghiên cứu đặc điểm dịch khớp và kết quả của phương pháp tiêm nội khớp Corticosteroid được chia sẻ bởi BSCKI. Phạm Văn Cường, Phó khoa Nội tổng hợp. Thoái hóa khớp là bệnh khá phổ biến, ở người lớn chiếm và người cao tuổi, bệnh nặng gây mất chức năng vận động và là nguyên nhân gây tàn tật đứng hàng thứ hai. Tại Khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện đa khoa Hà Đông đã tiến hành nghiên cứu từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 8 năm 2018 trên 115 bệnh nhân chia thành 2 nhóm, với sự khác nhau về giới, độ tuổi, đặc điểm nghề nghiệp, các biểu hiện lâm sàng chính. Qua đó thu được kết quả: 100% bệnh nhân hút dịch và tiêm Corticosteroid nội khớp gối có cải thiện nhanh và mạnh các triệu chứng tại thời điểm 30 ngày sau điều trị. Do đó, BS Phạm Văn Cường nhấn mạnh việc tiêm Corticosteroid nội khớp gối nên được áp dụng một cách thường qui với trường hợp thoái hóa khớp gối nguyên phát có phản ứng viêm để đạt hiệu quả cao hơn trên thực hành lâm sàng tại bệnh viện. Chuyên đề thứ 3 tại buổi sinh hoạt khoa học : "Kỹ thuật tạo đường vào mạch máu AVF" được chia sẻ bởi BS. Nguyễn Mạnh Trường, khoa Ngoại chấn thương. Theo đó, giải phẫu mạch máu chi trên, cấu trúc giải phẫu avf điển hình, vị trí đường mach máu avf, thứ tự ưu tiên làm avf cũng được chỉ ra. Ngoài ra, BS Nguyễn Mạnh Trường đã minh họa trường hợp cụ thể về avf tại vị trí hố lào, avf tĩnh mạch đầu động mạch quay, avf động mạch cánh tay tĩnh mạch đầu, chuyển vị tĩnh mạch nền động mạch cánh tay, chuyển vị avf chi trên. Đối với avf ở người cao tuổi nhiều bệnh phối hợp nên được tiến hành ở khuỷu tay vì động mạch quay có đường kính nhỏ thành dày, và nên được làm avf trước 24 tháng. Bệnh nhân trước phẫu thuật có thể cho tập thể dục giúp cho tĩnh mạch nở rộng và đạt được đường kính nòng tĩnh mạch, việc tập luyện bàn tay có thể giúp tăng tốc độ máu và huyết áp và được tin rằng có thể hỗ trợ sự trưởng thành của avf. Kết thúc cả ba chuyên đề, các câu hỏi được các bác sĩ, điều dưỡng đặt ra đều được các báo cáo viên giải đáp.   Buổi sinh học khoa học tháng 7 với các chuyên đề đều rất ý nghĩa, mang tính ứng dụng cao trong lâm sàng, đồng thời giúp các khoa phòng khác trong toàn bệnh viện cập nhật kiến thức chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm, từ đó học hỏi, nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh hướng tới sự hài lòng người bệnh.  

Xem Thêm

Sinh hoạt khoa học tháng 4 về chuyên môn: Tai mũi họng - Ung bướu - Chấn thương
Thứ Hai 08/04/2019 16:25:59
Chiều ngày 2/4/2019,  tại Hội trường trực tuyến Bệnh viện đa khoa Hà Đông đã tổ chức buổi sinh hoạt khoa học định kỳ theo tháng với 03 chuyên đề: “ Vi phẫu thanh quản – Bác sĩ nội trú Nguyễn Thị Thu Thư – Phó Trưởng khoa Tai mũi họng; Tan máu bẩm sinh – BSCKII Trương Bích Thủy – Trưởng khoa Ung bướu; Điều trị loét cùng cụt bằng vạt da cơ có  cuống  - Bác sĩ Nguyễn Mạnh Trường  - Khoa Chấn thương. Nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn cho toàn thể nhân viên trong bệnh viện và nâng cao chất lượng phục vụ, hướng đến sự hài lòng của người bệnh, bên cạnh đó tạo môi trường sinh hoạt khoa học, tiền đề cho các đề tài nghiên cứu khoa học của cán bộ y tế trẻ trong tương lai. Đến dự buổi sinh hoạt khoa học có BSCKII. Lê Hoàng Tú  – Phó Giám đốc bệnh viện,  cùng toàn thể các lãnh đạo trưởng, phó khoa, phòng , bác sĩ điều dưỡng trong bệnh viện.                                  Hình ảnh buổi sinh hoạt khoa học thường kỳ Mở đầu buổi sinh hoạt, Bác sĩ nội trú Nguyễn Thị Thu Thư – khoa Tai mũi họng chia sẻ  về đề tài Vi phẫu thanh quản đây cũng là đề tài được giải Nhì trong Hội thao Kỹ thuật sáng tạo trẻ cấp bệnh viện  trong năm 2019. Bệnh lý thanh quản hiện nay rất phổ biến thường hay gặp ở những người hàng ngày phải nói nhiều như giáo viên, hướng dẫn viên, ca sĩ…nếu bị tổn thương lành tính thì  bị hạt xơ, polyp, nang, u nhú, viêm đặc hiệu (lao, nấm…), còn tổn thương ác tính thì bị ung thư thanh quản; Khàn tiếng; Khó khăn trong giao tiếp. Với 50 bệnh nhân  đã được thực hiện vi phẫu thanh quản từ năm 2017 đến nay tại khoa Tai mũi họng - Bệnh viện ĐK Hà Đông mà chủ yếu là bệnh nhân nữ, trong độ tuổi lao động, triệu trứng cả tôn thương lành tính là ác tính. Các bác sĩ đã thực hiện Vi phẫu thanh quản với thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện ngắn, ít biến chứng, chiếm được mức độ hài lòng cao của người bệnh. BS Nội trú. Nguyễn Thị Thu Thư – khoa Tai mũi họng chia sẻ  về đề tài Vi phẫu thanh quản đề tài trong buổi sinh hoạt Trong buổi sinh hoạt BSCKII. Trương Bích Thủy – Trưởng khoa Ung bướu chia sẻ  về chuyên đề  Bệnh tan máu bẩm sinh, đây là bệnh thiếu máu phổ biến nhất trên thế giới, khoảng 71% quốc gia phân bố có tính địa dư rõ rệt, tập trung nhiều ở Đông Nam Á, Trung Đông và Địa Trung Hải. Đông Nam Á là một trong những vùng có tỷ lệ cao. Theo thống kê, cả nước hiện mới quản lý được khoảng 20.000 BN, trung bình mỗi năm có them 8.000 sinh ra bị bệnh, trong đó khoảng 2.000 trẻ bị bện mức độ nặng và 800 trẻ không thể chào đời do phù thai. BSCKII. Trương Bích Thủy – Trưởng khoa Ung bướu chia sẻ  về chuyên đề  Bệnh tan máu bẩm sinh Bệnh tan máu bẩm sinh: Có bốn gen qui định tổng hợp chuỗi alpha globin, tùy theo sự thiếu hụt số lượng gen mà có những biểu hiện bệnh khác nhau. + Thiếu một gen: Thường không có biểu hiện bệnh lý, nhưng là người mang gen và có thể truyền cho con. + Thiếu hai gen: Có biểu hiện bệnh nhưng mức độ nhẹ, gọi là bệnh thalassemia. + Thiếu ba gen: Có biểu hiện bệnh mức độ từ trung bình đến nặng, bệnh còn được gọi là bệnh huyết sắc tố H. + Thiếu bốn gen: Mức độ rất nặng, gây phù thai, thường gây tử vong trước hoặc ngay sau sinh. Ngoài ra bệnh tan máu bẩm sinh còn có  hai gen quy định tổng hợp chuỗi beta globin. + Thiếu một gen: Có thể có biểu hiện bệnh nhưng mức độ nhẹ, gọi là bệnh thalassemia mức độ nhẹ. + Thiếu hai gen: Có biểu hiện bệnh mức độ từ trung bình đến nặng, bệnh còn được gọi là thiếu máu Cooley. Đứa trẻ bị thiếu hai gen thường khi sinh ra vẫn mạnh khỏe nhưng sẽ có sớm từ ngay trong hai năm đầu đời. Khi mắc bệnh này người bệnh thường có những biểu hiện: Mệt mỏi, chóng mặt, đau, váng đầu;  Khó thở; Da xanh, niêm mạc nhợt; Khuôn mặt biến dạng – xương Phì đại các xương dẹt làm biến dạng đầu, mặt (trán dô, mũi tẹt, bướu chẩm…); Chậm phát triển về thể chất , trí tuệ; Phình bụng , gan to. Lách to; Nước tiểu sẫm màu; Bệnh biểu hiện 3 mức độ: Nặng, trung bình và nhẹ. Do vậy điều trị bằng phương  pháp phẫu thuật cắt lách giúp kéo dài khoảng cách thời gian giữa các đợt truyền máu; Ghép tế bào gốc: biện pháp này cần phải đáp ứng  các điều kiện ngặt nghèo như: phải tìm được nguồn tế bào gốc phù hợp, sức khỏe đảm bảo, các chi phí ghép… Bên cạnh đó, Bác sĩ Thủy cũng đưa ra cách phòng chống  bệnh đó là: Cần hiểu biết được cơ chế di truyền thì hoàn toàn có thể phòng tránh được. Tránh không sinh ra trẻ mang 2 gen bệnh do nhận từ cả bố và mẹ bằng các biện pháp như: Tầm soát và phòng tránh bệnh từ sớm; Sàng lọc  phát hiện bệnh sớm cho thai nhi;  Phòng ngừa bằng các xét nghiệm tầm soát và chấn đoán gen đột biến trong thai kỳ (Đây là bp hiệu quả và chi phí thấp). Nếu cả vợ và chồng đều mang gen thì thai nhi có 25% nguy cơ bị mắc bệnh ở thể nặng, TH này cần được thực hiện chấn đoán trước sinh bằng  phương pháp chọc ối hoặc sinh thiết gai rau và tìm đột biến gen. Cũng tại buổi sinh hoạt Bác sĩ Nguyễn Mạnh Trường – khoa Chấn thương chia sẻ về đề tài Điều trị loét cùng cụt bằng vạt da cơ có cuống mạch mông trên kiểu chong chóng.  Bác Trường cho hay vừa qua khoa Chấn thương thực hiện một ca bệnh nhân nam 65 tuổi, tiền sử bị xơ gan rượu nhiều năm; Bị viêm tuỵ cấp có lọc huyết tương tại; Thể trạng suy kiệt; Loét tì đè vùng cùng cụt độ IV. Ổ loét đang có nguy cơ tạo lỗ dò đáy phủ nhiều giả mạc vàng dính phân và nước tiểu. Phần rìa ổ loét đang có nguy cơ loét rộng. Chúng tôi tiến hành hút áp lực âm(VAC) liên tục 5 ngày; Bóc tách cuống mạch vạt cơ mông trên; Xoay và di chuyển vạt đến vị trí che phủ. Kết quả sau 5 năm ngày bệnh nhân đã dần ổn định. Ưu điểm của phương pháp này lớp nông cơ mông lớn, cân cơ và da có cuống mạch nuôi ổn định, tạo lớp nền ổn định tránh loét tái phát. Kĩ thuật tạo vạt không quá phức tạp do không phải phẫu tích cuống mạch nuôi. Chức năng cơ mông lớn được bảo tồn do chỉ lấy lớp nông. Bác sĩ Nguyễn Mạnh Trường – khoa Chấn thương chia sẻ về đề tài Điều trị loét cùng cụt bằng vạt da cơ có cuống mạch mông trên kiểu chong chóng Hiện nay ở Việt Nam, Máy hút áp lực âm cũng được sử dụng rộng rãi tại các bệnh viện trong đó có bệnh viện đa khoa Hà Đông đã áp áp dụng điều trị các trường hợp loét mãn tính (Loét do tì đè, loét bàn chân đái tháo đường…). Đây là kết quả bước đầu nhằm đánh giá hiệu quả lâm sàng của máy hút áp lực âm đối với các vết thương mãn tính. Kết thúc buổi sinh hoạt, BSCKII Lê Hoàng Tú - Phó Giám đốc bệnh viện cám ơn sự chia sẻ những kinh nghiệm chuyên môn của 3 báo cáo viên. Qua buổi sinh hoạt này mong muốn các y bác sỹ trẻ cần phát huy hơn nữa về chuyên môn. Góp phần xây dựng  bệnh viện ngày càng phát triển bền vững và uy tín.  

Xem Thêm

BVĐK Hà Đông đạt Giải Ba trong Hội thao Kỹ thuật Sáng tạo tuổi trẻ ngành Y tế khu vực Hà Nội lần thứ XXVIII năm 2019
Thứ Hai 18/03/2019 22:41:43
Chiều 17/3, tại Bệnh viện Bạch Mai đã diễn ra lễ bế mạc Hội thao Kỹ thuật sáng tạo tuổi trẻ ngành Y tế khu vực Hà Nội lần thứ XXVIII năm 2019. Tới dự có Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Ngô Văn Quý. Chương trình do Thành đoàn Hà Nội phối hợp với các đơn vị tổ chức nhân dịp kỷ niệm 88 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (26/3). Với sự tham gia của 155 đề tài, kíp kỹ thuật đến từ 34 cơ sở y tế, Hội thao Kỹ thuật sáng tạo tuổi trẻ ngành y tế khu vực Hà Nội lần thứ 28 đã kết thúc thắng lợi với 24 giải Nhất, 24 giải Nhì, 24 giải Ba, 83 giải Khuyến khích, 4 giải phụ dành cho các đơn vị, cá nhân dự thi và 14 giải phong trào khác đã được trao cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc tham gia tổ chức và triển khai thực hiện Hội thao từ cấp cơ sở tới cấp liên viện. Đến với Hội thao lần này, Bệnh viện đa khoa Hà Đông tham dự 04 đề tài. Kết quả 01 đề tài đạt giải ba, 03 đề tài đạt giải Khuyến khích cụ thể các đề tài do các kíp kỹ thuật thực hiện đó là: Lấy sỏi niệu quản bằng rọ Dormia trong điều trị cơn đau tiết niệu cấp cứu -Khoa Ngoại tiết niệu; Ứng dụng màng Fibrin giàu tiểu cầu (Latelet rich fibrin-PRF) trong điều trị các bệnh răng miệng - Khoa Răng hàm mặt; Nội soi vi phẫu thanh quản - Khoa Tai mũi họng. Cả 3 đề tài này được giải khuyến khích. Đặc biệt đề tài “Đánh giá mức dịch nội mạch thông qua đo tĩnh mạch chủ dưới bằng siêu âm” - Khoa Thăm dò chức năng đạt giải ba. Bệnh viện đa khoa Hà Đông ( đứng thứ 3 từ phải qua trái) cùng các đơn vị nhận Giải ba Hội thao sáng tạo tuổi trẻ ngành Y tế khu vực Hà Nội lần thứ XXVIII năm 2019 Qua Hội thao và giải thưởng lần này, cho thấy  được sức trẻ, sức sáng tạo, tinh thần không ngừng học tập, rèn luyện, phấn đấu và khẳng định mình của tuổi trẻ bệnh viện đa khoa Hà Đông nói riêng và  ngành y tế Thủ đô nói chung. Đây được coi là thành công thể hiện tài năng, trí tuệ trong học tập, nghiên cứu khoa học, ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại, tiên tiến trong công tác điều trị, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của bệnh viện đối với Nhân dân ngày càng được nâng cao.

Xem Thêm

DANH MỤC TIN